Cựu chiến binh kể trận đánh đồi A1 Điện Biên Phủ

'Hàng trăm khẩu pháo của ta và địch cùng bắn vào đồi A1 nên tai chúng tôi bị 'điếc đặc', không còn nghe thấy gì nữa. Hiệp đồng và chỉ huy chiến đấu chỉ bằng quan sát ánh lửa đầu nòng súng của người chỉ huy', ông Nguyễn Thụ - nguyên Trung Đội trưởng Trung đội 269 kể lại.

Giành giật từng tấc đất

Nhớ lại những ngày tháng diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Nguyễn Thụ (sinh năm 1933, quê ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) - nguyên Trung đội trưởng Trung đội 269 (Tiểu đoàn 54, Trung đoàn 102, Đại đoàn 308) không khỏi bồi hồi.

Chia sẻ với phóng viên báo Tiền Phong, ông Nguyễn Thụ kể: Năm 1949, ông xung phong nhập ngũ và được biên chế vào Đại đội 42 (Tiểu đoàn 84, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308) và tham gia nhiều chiến dịch.

Năm 1952, ông được chọn đi học sĩ quan khóa 7 tại Trường Lục quân Việt Nam (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1). Tốt nghiệp khóa học 1952 - 1953, ông được điều về công tác tại Đại đội 269 (Tiểu đoàn 54, Trung đoàn 102, Đại đoàn 308) với chức vụ quyền Trung đội trưởng.

Ngày 26/1/1954, Đại đoàn 308 được lệnh lập tức sang Lào thực hiện Chiến dịch Thượng Lào (từ 29/1 đến 13/2/1954) nhằm giúp bạn mở rộng vùng giải phóng và thực hiện nghi binh thu hút địch. Đồng thời, cô lập không cho địch chi viện từ Lào sang Điện Biên Phủ, buộc chúng chỉ còn một con đường là chi viện cho Điện Biên Phủ bằng đường không. Sau khi giải phóng Thượng Lào, ngày 18/2/1954, đơn vị của ông được lệnh trở về Điện Biên Phủ cùng tham gia chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch.

Lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... vận chuyển lương thực, thực phẩm hỗ trợ cho chiến trường Điện Biên Phủ.

Trong đợt tấn công thứ nhất, quân ta thắng lợi giòn giã. Bước sang đợt 2, ngay trong đêm 30/3/1954, quân ta đồng loạt đánh vào 5 ngọn đồi ở phía đông Mường Thanh là A1, C1, C2, D, E. Đêm ấy, ta diệt gọn 3 cứ điểm C2, D, E, còn đồi C1, A1 hai bên giằng co, mỗi bên giữ một nửa, riêng đồi A1 kéo dài 36 ngày đêm. Đánh đồi A1 chủ yếu là Đại đoàn 316 và Đại đoàn 308. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt.

Cũng theo ông Thụ, Trung đội do ông chỉ huy được điều lên thay quân chiến đấu trên đồi A1 một ngày và gần hai đêm. Quân số 16 người, được trang bị 2 trung liên, 4 tiểu liên, còn lại là súng trường.

“Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt. Hàng trăm khẩu pháo của ta và địch cùng bắn vào đồi A1 nên tai chúng tôi bị 'điếc đặc', không còn nghe thấy gì nữa. Hiệp đồng và chỉ huy chiến đấu chỉ bằng quan sát ánh lửa đầu nòng súng của người chỉ huy. Qua chiến đấu, Trung đội tôi cũng cho nhiều đồng chí bị thương và hy sinh. Sau mỗi trận đánh, chúng tôi lại củng cố công sự, công sự nào tốt nhất thì dành cho thương binh”, ông kể lại.

Chiều 7/5/1954, lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát.

Đến 17h, đợt phản kích bắt đầu. Do chỉ còn 5 người nên các đồng chí thương binh có thể còn chiến đấu được cũng cầm súng chiến đấu. Pháo binh ta bắn dồn dập vào trận địa địch, quân địch kêu la inh ỏi và tháo chạy. Sau đợt chiến đấu này, 1 khẩu trung liên của Trung đội bị hỏng, đạn và lựu đạn cũng gần hết, chiến sĩ thông tin hy sinh, máy thông tin 2W bị hỏng, Trung đội mất liên lạc với Sở Chỉ huy Trung đoàn và pháo binh. Nước uống và lương khô cũng hết, khát đến cháy cổ, tuy nhiên các chiến sỹ động viên nhau chiến đấu đến cùng và sẵn sàng đánh giáp lá cà với địch, quyết tâm bảo vệ trận địa.

Trong lúc ở vào thời điểm gay go, chỉ khoảng 30 phút sau, 10 đồng chí cán bộ, chiến sĩ do chính Trung đoàn trưởng Hùng Sinh dẫn đầu mang theo cả vũ khí, máy thông tin lên trận địa. Ông báo cáo nhanh tình hình ta, địch. Lúc này, địch lại tiếp tục phản kích. Do có máy thông tin liên lạc nên pháo binh ta bắn phá mãnh liệt và khá chính xác vào trận địa của địch nên chúng phải tháo chạy.

Đến khoảng 19h, Trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ cho các đồng chí mới lên thay giữ vững trận địa và dặn dò tỷ mỉ cách xử trí một số tình huống, rồi cùng chúng tôi rời khỏi trận địa.

Những ngày sau đó là những giây phút quyết chiến và quân đội ta đã giành chiến thắng. Sau trận đánh này, ông và một đồng chí nữa được thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông được điều về Trường Sĩ quan Lục quân 1 làm giảng viên. Sau 43 năm công tác phục vụ Quân đội, ông được tặng thưởng 8 huân chương các loại.

Ông Nguyễn Thụ - nguyên Trung Đội trưởng Trung đội 269 (Tiểu đoàn 54, Trung đoàn 102, Đại đoàn 308).

Quân và dân Thủ đô chia lửa với chiến trường Điện Biên Phủ

Thiếu tướng Lê Như Đức - Chủ tịch Hội Cựu chiến binh TP. Hà Nội, cho biết, chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, là kỳ tích vẻ vang trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam.

Thiếu tướng Lê Như Đức cho biết, cùng chia lửa với chiến trường Điện Biên Phủ, quân và dân Thủ đô đã tổ chức hàng nghìn trận đánh lớn nhỏ, ở các huyện ngoại thành nhằm tiêu hao sinh lực địch. Ví như, trận tập kích sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm, phá hủy 33 máy bay và nhiều kho nhiên liệu của địch, góp phần làm suy yếu, sự chi viện bằng đường hàng không của địch cho cứ điểm Điện Biên Phủ...

Hội Cựu chiến binh Hà Nội tri ân các cựu binh tham gia chiến trường Điện Biên Phủ.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội có 1.697 người trực tiếp tham gia, có người đã anh dũng hy sinh, không cùng trong đội ngũ của Đại đoàn quân trở về Giải phóng Thủ đô tháng 10/1954.

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, nhiều người tiếp tục công tác trong quân đội, giữ những cương vị quan trọng của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, nhiều người trở về với cuộc sống đời thường… Dù ở bất cứ cương vị nào, các cựu chiến binh luôn phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, gương mẫu đi đầu trong mọi lĩnh vực, Thiếu tướng Lê Như Đức chia sẻ.

Thanh Hiếu

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/cuu-chien-binh-ke-tran-danh-doi-a1-dien-bien-phu-post1633393.tpo