Rút kinh nghiệm bản án hình sự sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng việc áp dụng pháp luật

Thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Nguyễn Vũ Th bị TAND tỉnh L xét xử sơ thẩm về tội 'Giết người', VKSND cấp cao tại Hà Nội (Viện cấp cao 1) vừa ban hành thông báo rút kinh nghiệm ngày 8/5/2024 do bản án hình sự sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Nội dung vụ án cho thấy, khoảng 14h ngày 8/7/2023, tại quán “Hòa Dung Quán” thuộc huyện CL, tỉnh L, Nguyễn Vũ Th vào can ngăn Hồ Phương H và Nông Thị D cãi vã, xô xát nhau nhưng Hồ Phương H không nghe và có hành vi đấm Nguyễn Vũ Th và ném vỏ bom bia về phía Nguyễn Vũ Th. Sau đó, Nguyễn Vũ Th cầm con dao nhọn chém trúng vào tai, tay của Hồ Phương H và đâm một nhát xuyên thấu trong vào vùng bụng bên trái (vùng trọng yếu trên cơ thể có thể dẫn đến chết người) của Hồ Phương H, dẫn đến Hồ Phương H bị thương tích với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 47%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2024/HS-ST ngày 8/1/2024 của TAND tỉnh L tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Th phạm tội “Giết người”. Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 15, Điều 38, Điều 50, Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Th 7 năm tù.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Vũ Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, do bị cáo Th rút đơn kháng cáo nên HĐXX TAND cấp cao tại Hà Nội đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với vụ án theo quy định của pháp luật.

 Quang cảnh phiên tòa xét xử một vụ án hình sự. (Ảnh minh họa)

Quang cảnh phiên tòa xét xử một vụ án hình sự. (Ảnh minh họa)

Trong vụ án trên, theo Viện cấp cao 1 có những vấn đề cần rút kinh nghiệm. Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Nguyễn Vũ Th phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” và áp dụng tình tiết tăng tặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự là không đúng.

Cụ thể, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2024/HS-ST ngày 8/1/2024 của TAND tỉnh L đã nhận định “Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa thi hành xong án phí hình sự phúc thẩm của Bản án số 198/2016/HSPT ngày 24/11/2016 của TAND tỉnh B, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo có tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015” và quyết định xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Th phạm tội “Giết người”. Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 15, Điều 38, Điều 50, Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Th 7 năm tù.

Xét thấy, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 198/2016/HSPT ngày 24/11/2016 của TAND tỉnh B, bị cáo Nguyễn Vũ Th bị xử phạt 6 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1, Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 (nay là Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015) có khung hình phạt tù đến 5 năm, là tội phạm nghiêm trọng và lỗi của bị cáo là vô ý.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì “Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”.

Như vậy, trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Vũ Th không bị coi là có án tích đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 198/2016/HSPT ngày 24/11/2016 của TAND tỉnh B. Việc TAND tỉnh L nhận định bị cáo Nguyễn Vũ Th chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm” và áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là chưa chính xác, gây bất lợi đối với bị cáo.

Thứ hai, Bản án sơ thẩm có một số vi phạm về hình thức. Cụ thể, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự thì “Bản án sơ thẩm phải ghi rõ... họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị hại...”. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm không ghi rõ nghề nghiệp của bị hại Hồ Phương H là không đúng quy định.

Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Vũ Th hiện đang bị tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, phần “Nơi nhận” của Bản án sơ thẩm không ghi gửi cho Trại tạm giam, Trại giam nơi đang giam giữ bị cáo Th là không thực hiện đúng quy định tại khoản 1, Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

P.V

Nguồn BVPL: https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-tien-kinh-nghiem/rut-kinh-nghiem-ban-an-hinh-su-so-tham-vi-pham-nghiem-trong-viec-ap-dung-phap-luat-157862.html