Một chỉ số quan trọng trồi sụt cho thấy 'kinh tế phục hồi chưa vững chắc'

Theo chuyên gia, chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam trong tháng 3 giảm về 49,9 điểm sau khi đạt 50,4 điểm trong tháng 2 cho thấy, mức phục hồi tăng trưởng trong nền kinh tế vẫn chưa thật vững chắc.

Thấp hơn mức trung bình ASEAN

Dữ liệu từ S&P Global, trong tháng 3, chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Việt Nam đã giảm về 49,9 điểm sau khi đạt 50,4 điểm trong tháng 2. Với mức điểm này, PMI của Việt Nam thấp hơn so với mức trung bình của ASEAN là 51,5 điểm. Đồng thời, thấp hơn ba quốc gia Singapore, Indonesia và Philippines nhưng cao hơn Thái Lan, Malaysia và Myanmar.

Trong báo cáo mới đây, bà Dorsati Madani, chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới nhận định cho rằng: “Chỉ số PMI của Việt Nam xoay quanh mốc 50 điểm cho thấy sự bất định trong ngắn hạn. Chủ yếu liên quan đến diễn biến của hoạt động xuất khẩu chưa có nhiều khởi sắc, cho thấy xuất hiện sự hứa hẹn nhất định cho hoạt động xuất khẩu nhưng phục hồi còn chậm và thiếu sự đồng đều ở một số tiểu ngành”.

Chuyên gia kinh tế - PGS.TS Đinh Trọng Thịnh cho biết, chỉ số PMI của Việt Nam sau khi cải thiện nhẹ trong hai tháng đầu năm trên ngưỡng 50 điểm nhưng tháng 3 lại giảm về 49,9 điểm cho thấy mức phục hồi của tăng trưởng trong nền kinh tế hoặc ngành công nghiệp vẫn chưa thật vững chắc.

Nguyên nhân là bởi cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều giảm, trong khi tình trạng nhu cầu giảm đã khiến chi phí đầu vào tăng chậm hơn và giá bán hàng giảm.

Hơn nữa, chỉ số PMI của Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình của ASEAN cũng chứng tỏ, ngoài rào cản liên quan đến xu hướng kinh doanh mới như tín chỉ xanh, sử dụng năng lượng tái tạo, các sản phẩm trong nước cũng khó có thể cạnh tranh với các sản phẩm tương đồng khác ở các nước trong khu vực.

Lý giải chỉ số PMI của Việt Nam thấp hơn so với trung bình ASEAN, ông Nguyễn Quốc Việt - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR) cho biết, chỉ số PMI của Singapore tăng cao là do các mặt hàng mũi nhọn như đồ điện tử, hóa chất và dịch vụ có xu hướng xuất khẩu tăng. Còn tại Indonesia, ngoài xuất khẩu nhiều sang các nước trong khu vực, nhu cầu trong nước của quốc gia này cũng cao hơn các nước khác nhờ dân số đông thứ 4 thế giới và thứ 3 châu Á với hơn 279 triệu người (số liệu năm 2022).

Trong khi tại Việt Nam, đến đầu năm 2024, khi đơn hàng quay trở lại, nhiều doanh nghiệp cần có một nguồn lực vốn lớn để nhập nguyên phụ liệu và mở rộng sản xuất kinh doanh và trả lương lao động.

Nhưng trên thực tế, chỉ có doanh nghiệp có tiềm lực, có khả năng tiếp cận nguồn vốn từ phía ngân hàng mới có thể tiếp nhận những đơn hàng này. Còn những doanh nghiệp đã và đang gắng gượng sau những cú sốc về COVID-19, sau đó cú sốc về suy giảm kinh tế trong trường hợp có đơn hàng thì cũng không có khả năng tiếp cận được nguồn vốn để phục hồi sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh đó, về nhu cầu trong nước, số liệu Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra, bình quân 5 năm trước đại dịch, giai đoạn (2015 - 2019), tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,5%/năm. Mức tăng 8,2% trong quý I là mức tăng trưởng rất thấp so với thời điểm trước dịch.

“Tất cả yếu tố này khiến chỉ số PMI của Việt Nam thấp hơn so với trung bình ASEAN”, ông Việt khẳng định.

Cần giữ ổn định kinh tế vĩ mô

Tuy vậy, theo ông Andrew Harker - Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, mặc dù có sự yếu kém trong tháng 3 nhưng các nhà sản xuất ngày càng tin tưởng rằng sản lượng sẽ tăng trong thời gian một năm tới. Mức độ lạc quan là mạnh nhất trong thời gian một năm rưỡi. Các công ty dự kiến tung ra các sản phẩm mới để thúc đẩy sản lượng, đồng thời cũng hy vọng rằng nhu cầu thị trường cải thiện sẽ giúp tăng số lượng đơn đặt hàng mới. Các nhà sản xuất cũng nỗ lực tăng tuyển dụng trong tháng 3, từ đó tăng số lượng việc làm tháng thứ hai liên tiếp. Đây cũng là tốc độ tăng việc làm nhanh nhất kể từ tháng 10/2022.

Từ cuối tháng 11/2023 tới nay, nhờ sự tăng trưởng trở lại của hoạt động xuất nhập khẩu khiến khu vực sản xuất công nghiệp có sự hồi phục mạnh mẽ và tác động tích cực chỉ số PMI nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung.

Điều đáng lo là theo Ngân hàng thế giới, trong năm nay, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chững lại năm thứ 3 liên tiếp, GDP dự kiến giảm từ mức 2,6% trong năm 2023 xuống còn 2,4%.

Trong đó, 3 nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc sẽ có mức tăng trưởng thấp hơn năm trước, nhu cầu về hàng hóa từ các thị trường này có thể giảm xuống. Song, đây lại là 3 thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến triển vọng xuất khẩu năm nay của nước ta.

Do vậy, PGS. TS Đinh Trọng Thịnh khuyến nghị, các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải đẩy mạnh tìm kiếm thị trường mới bên cạnh các thị trường truyền thống như tập trung vào các thị trường mà Việt Nam đã ký các hiệp định thương mại song phương và đa phương và tập trung vào thị trường nội địa tìm cơ hội.

“Doanh nghiệp cần phải giảm thiếu tối đa các chi phí để giảm giá thành sản xuất, cung ứng sản phẩm với chất lượng và giá cả phù hợp, từ đó có thể đẩy mạnh hoạt động tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo đà cho hồi phục và phát triển tốt hơn”, ông Thịnh chia sẻ.

Cùng với đó, nhằm cải thiện chỉ số PMI của Việt Nam, ông Nguyễn Quốc Việt cho rằng, trong ngắn hạn, tận dụng các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, và tích cực tham gia vào tham gia vào các Đối tác chiến lược – Đối tác toàn diện với các nước sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường, thúc đẩy sản xuất trong nước.

Về dài hạn, Việt Nam cần phải nỗ lực cải thiện chỉ số về năng lực cạnh tranh toàn cầu như cải cách thể chế của Nhà nước, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, kĩ năng của người lao động, cơ sở hạ tầng, chí phí logistics,… kể cả trong xu hướng giảm và phục hồi của nền kinh tế.

Mặt khác, theo ông Việt, dù là một lợi thế của kinh tế Việt Nam, nhưng nếu không giữ được ổn định kinh tế vĩ mô thời gian tới thì sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của người tiêu dùng, doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó, chắc chắc sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung và sản xuất trong nước nói riêng.

Nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra gợi ý, các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam cần hiệu chỉnh phù hợp với bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước. Trong đó, thúc đẩy đầu tư công để phục hồi kinh tế trong ngắn hạn là vấn đề cần quan tâm. Đầu tư công phải chú trọng vào những dự án có tác động lan tỏa đến tăng trưởng, ví dụ hạ tầng giao thông, logistics, những dự án này sẽ có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phục hồi trong dài hạn.

Kỳ Thư

Nguồn Vietnam Finance: https://vietnamfinance.vn/mot-chi-so-quan-trong-troi-sut-cho-thay-kinh-te-phuc-hoi-chua-vung-chac-d110108.html